(1) Luật tố tụng hành chính (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 85/2025/QH15);

 

I. LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THEO LUẬT SỐ 85/2025/QH15)

     Ngày 25/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, khóa XV Quốc hội đã thông qua Luật số 85/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Pháp sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 (sau đây gọi chung là Luật Tố tụng hành chính năm 2025).

Trên cơ sở mô hình tổ chức hệ thống Tòa án 03 cấp (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực) so với mô hình tổ chức hệ thống Tòa án 04 cấp (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện) trước đây thì Luật Tố tụng hành chính năm 2025 đã sửa đổi 16 Điều, bổ sung 02 Điều (Điều 31a. Thẩm quyền của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân khu vực; Điều 32a. Thẩm quyền của Tòa chuyên trách Tòa án cấp tỉnh) liên quan đến các quy định về khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, quy định về thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các vấn đề khác có liên quan khi kết thúc hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân cấp huyện, cụ thể:

  • Thứ nhất, khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Luật mới đã sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án về khiếu kiện đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống thay bằng khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ dưới Thứ trưởng và dưới tương đương Thứ trưởng tại khoản 2 Điều 30 của Luật cũ để phù hợp với quy định về các các chức danh này theo quy định hiện hành.
  • Thứ hai, thẩm quyền giám đốc việc xét xử Luật mới đã sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giám đốc việc xét xử, theo đó Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án; Tòa án cấp tỉnh giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân khu vực thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ để bảo đảm việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 24) so với quy định cũ thì Tòa án cấp tỉnh không có thẩm quyền giám đốc việc xét xử.
  • Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết của 03 cấp Tòa án (Tòa án nhân dân khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao), cụ thể như sau:

    1. Thay thế cụm từ “cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp” bằng cụm từ “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền” tại khoản 2 Điều 75, khoản 2 Điều 77, khoản 3 Điều 196, khoản 1 Điều 197.
    2. Thay thế cụm từ “cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó” bằng cụm từ “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền” tại điểm b khoản 2 Điều 311.
    3. Thay thế cụm từ “Ủy ban Tư pháp của Quốc hội” bằng cụm từ “Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội” tại điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 287, Điều 288, khoản 1 Điều 289, Điều 290, các khoản 2, 3 và 5 Điều 291, Điều 292, Điều 297.
    4. Thay thế cụm từ “Thẩm tra viên” bằng cụm từ “Thẩm tra viên Tòa án” tại khoản 1 Điều 14, điểm a khoản 2 Điều 36, điểm b khoản 1 Điều 37, Điều 40, Điều 47, Điều 48, khoản 2 Điều 50, điểm d khoản 3 Điều 63, điểm c khoản 3 Điều 64, khoản 4 Điều 84, khoản 1 Điều 332.
    5. Thay thế cụm từ “Công an xã, phường, thị trấn” bằng cụm từ “Công an xã, phường, đặc khu” tại khoản 2 Điều 85, các khoản 1, 2 và 4 Điều 88, khoản 3 và khoản 4 Điều 106.
>>>>xem trang chủ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét