Đình chỉ thi hành án trong trường hợp nào?

Theo Từ điển Tiếng Việt “đình chỉ” “ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hoặc vĩnh viễn”, theo Từ điển Pháp lý thì “đình chỉ thi hành án”“ngừng việc thi hành bản án, quyết định dân sự”. Đình chỉ thi hành án là việc cơ quan thi hành án ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật.

Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Việc thi hành án sau khi bị đình chỉ sẽ không được đưa ra thi hành nữa, các bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án, kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Vấn đề đình chỉ thi hành án được quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

1. Căn cứ đình chỉ thi hành án

Theo Điều 50 Luật Thi hành án dân sự, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp sau đây:

  • Một là: Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế
  • Hai là: Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế
  • Ba là: Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
  • Bốn là: Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 của Luật Thi hành án dân sự
  • Năm là: Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác
  • Sáu là: Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án
  • Bảy là: Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án
  • Tám là: Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên

 2. Về quyết định đình chỉ thi hành án

Khoản 2 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự đã quy định trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án.

  • Về quyền yêu cầu thi hành án sau khi có quyết định đình chỉ thi hành án, hiện nay, việc đương sự không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại mới chỉ được thể hiện tại biểu mẫu số D51-thi hành án ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp. Luật Thi hành án dân sự chưa quy định về việc đương sự không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại khi có Quyết định đình chỉ thi hành án. Mặt khác, tại khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự cũng không có quy định các trường hợp từ chối yêu cầu thi hành án đối với trường hợp việc thi hành án đã bị đình chỉ. Do đó, việc quy định rõ ràng tại điều luật về việc đương sự không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại đối với trường hợp đình chỉ thi hành án là rất cần thiết để các đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình.
  • Hiện nay, đang có những băn khoăn về trường hợp đương sự rút đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án thì đương sự có được tiếp tục làm đơn yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án hay không?
    • Quan điểm thứ nhất cho rằng đương sự được quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án trở lại, vì theo khoản 1 Điều 35 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng Thừa phát lại  hoặc cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án. Nghị định số 61/2009/NĐ- CP và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định về việc Văn phòng Thừa phát lại không được thụ lý các vụ việc thi hành án cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ thi hành án.
    • Quan điểm khác cho rằng, một khi đã có quyết định đình chỉ thi hành án thì đương sự không được quyền yêu cầu thi hành án trở lại. Nghị định về Thừa phát lại không có quy định nào cho phép Văn phòng Thừa phát lại được thụ lý  yêu cầu thi hành án dân sự trong trường hợp đã có quyết định đình chỉ thi hành án. Theo Điều 36 Nghị định 135/2013 chỉ quy định trường hợp đã được tổ chức thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự  nhưng sau đó đương sự có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án và yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án. Quyền yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ  chức thi hành theo quy định này chỉ áp dụng đối với những trường hợp đã tổ chức thi hành án một phần nhưng sau đó đương sự  có văn bản yêu cầu thi hành án dân sự không tiếp tục và yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại có thể chấp nhận bảo lưu kết quả thi hành án trước đó của đương sự để tiếp tục tổ chức thi hành. Trường hợp chưa tổ chức thi hành thì không có kết quả bảo lưu nên không thể tiếp tục tổ chức thi hành án. Đến nay pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại chưa hoàn thiện và Luật Thi hành án dân sự cũng không quy định cụ thể để giải quyết trường hợp này. Do vậy, các  cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất để giải quyết những khó khăn vướng mắc từ thực tiễn thi hành, đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án.

Đình chỉ thi hành án là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quyền và lợi ích của các đương sự, do đó việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện vấn đề này là rất cần thiết.

Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội ( ngày 21/08/2018)

=================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét