11. “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức, không đủ tỉnh táo để nhận biết một cách đầy đủ mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động (như: bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh...), chứ không phải do bản thân người phạm tội gây ra.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào tính chất, mức độ bị hạn chế khả năng nhận thức của người phạm tội và hoàn cảnh, nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động đến nhận thức của người phạm tội.
Ví dụ: Nguyễn Văn A biết Phạm Văn B nếu uống rượu thì sẽ gặp tình trạng hạn chế khả năng điều khiển hành vi. A đổ rượu vào lon nước ngọt cho B uống. Biết mình đã uống rượu, B tức giận, bỏ về. Trên đường về, thấy chị Tạ Thị C nên B đã xông vào đánh chị C, hậu quả chị C bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 30%. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y tâm thần, kết quả giám định kết luận: tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, về mặt y học, B bị trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do rượu (say rượu bệnh lý). Trường hợp này, Phạm Văn B được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét