BẢN LUẬN CỨ

 

BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn Ngô Thị Hoài

Kính thưa: Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát và toàn thể quý vị có mặt trong phiên tòa hôm nay.

Tôi, Luật sư Ngô A.T thuộc Công ty Luật TNHH ABC & Cộng sự, Đoàn Luật sư TP Hà Nội. Hôm nay, tôi có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Ngô Thị Hoài - bị đơn trong vụ án. Sau đây, tôi xin trình bày nội dung luận cứ bảo vệ cho thân chủ tôi - bị đơn Ngô Thị Hoài như sau:

                         I.          Tóm tắt nội dung vụ án

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh Anh trình bày:

Ông Nguyễn Thanh Anh và bà Ngô Thị Hoài kết hôn ngày 28/12/2001, đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 219/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Khi giải quyết ly hôn thì các bên chưa yêu cầu giải quyết về phần tài sản. Ông có ngôi nhà hai lầu với diện tích xây dựng 38,9 m2, tổng diện tích sàn 77,8 m2 nằm trên tổng diện tích đất là 56,5 m2 tại thửa đất số 458 tờ bản đồ số 79 tại địa chỉ số 91/31 đường Bình Thành, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (Trong hồ sơ này, xin được viết tắt là “Nhà đất 91/31 Bình Thành”), hiện mang tên ông Nguyễn Thanh Anh (Theo xác nhận thay đổi cơ sở pháp lý của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Bình Tân ngày 03/3/2015). Về nguồn gốc nhà đất là do ngày 10/02/2015, ông Anh là người ký hợp đồng chuyển nhượng của vợ chồng ông Phạm Ích Bàn, bà Nguyễn Thị Hiền và là người trực tiếp trả tiền mua bán nhà đất cho ông Bàn, bà Hiền với giá 825 triệu đồng. Bà Hoài không liên quan gì đến nhà đất này.

Nguồn tiền để mua nhà đất trên là năm 2009, mẹ đẻ của ông Anh là cụ Nguyễn Thị Thân đã bán đất đi mua vàng. Vào tháng 9 năm 2014, ông Anh được cụ Thân cho riêng 20 cây vàng, ông đã bán đi được số tiền 740 triệu đồng và gửi tiết kiệm vào Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Mỹ Đình (trong Hồ sơ này xin viết tắt là “Agribank Chi nhánh Mỹ Đình”) vào ngày 16/9/2014. Ngày 09/02/2015, trước khi mua nhà một ngày, ông Anh đã rút toàn bộ tiền cả gốc và lãi được số tiền 750.914.800 đồng, rồi dùng toàn bộ số tiền đó để trả tiền mua nhà. Số tiền còn thiếu là 74.085.000 đồng, ông Anh đã dùng khoản tiền của ông làm ra trong thời kỳ hôn nhân với bà Hoài để trả tiền mua nhà. Ông Anh xác định số tiền 750.914.800 đồng là tài sản riêng của ông được mẹ đẻ cho riêng nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định đây là tài sản riêng của ông.

Việc bà Hoài khai ông và bà Hoài vay tiền của ông Phạm Văn Thân (anh rể bà Hoài) để mua nhà đất trên là không đúng, ông phủ nhận điều này. Đối với yêu cầu của bà Hoài về việc đề nghị Tòa án xác định toàn bộ nhà đất trên là tài sản chung của ông và bà Hoài thì ông không đồng ý, ông chỉ đồng ý chia cho bà Hoài 50% số tiền khi mua bằng tài sản chung của vợ chồng là 74.085.000 đồng. Ông yêu cầu Tòa án bác yêu cầu phản tố của bà Hoài về việc yêu cầu xác định toàn bộ nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản chung giữa ông và bà Hoài.

  Tại bản tự khai, đơn phản tố và trong các lời khai tại Tòa án, bà Ngô Thị Hoài trình bày:

  Bà và ông Nguyễn Thanh Anh kết hôn năm 2001, ly hôn tháng 6 năm 2022. Trong Quyết định ly hôn chưa giải quyết về tài sản. Tháng 2 năm 2015, vợ chồng bà có mua nhà đất tại số 91/31 Bình Thành, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh của ông Phạm Ích Bàn và bà Nguyễn Thị Hiền, giá mua nhà đất là 825 triệu đồng. Bà khi đó ở ngoài Hà Nội thì ông Anh gọi vào, bà nghĩ là đi vào trong Thành phố Hồ Chí Minh tốn kém nên có bảo ông Anh cứ làm thủ tục đứng tên ông Anh đi. Do đó mới có việc bà không phải là người trực tiếp ký hợp đồng mua bán nhà đất và không phải là người trực tiếp trả tiền mua nhà đất cho ông Bàn, bà Hiền.

Nguồn gốc số tiền 825 triệu đồng để mua đất là do bà buôn bán nhiều năm tiết kiệm có được, bà đưa khoản tiền này cho ông Anh để mua nhà chứ không hề có chuyện có khoản tiền ông Anh được cho riêng và gửi tiết kiệm. Năm 2008 đến 2009, bà bắt đầu buôn bán nước giải khát tại nhà chồng tại phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm khi đó bà có lộc buôn bán kiếm được nhiều tiền nên mới có tiền để tiết kiệm.

Khi mua nhà đất năm 2015, do thiếu tiền để trả cho ông Bàn, bà Hiền nên vợ chồng bà có vay mượn của ông Phạm Văn Thân (là anh rể của bà) số tiền 200 triệu đồng, không có giấy tờ vay mượn (ông Phạm Văn Thân có địa chỉ tại thôn Lĩnh Mai, xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh).

Ngày 27/10/2017, ông Anh gọi cho bà vào Thành phố Hồ Chí Minh đến Phòng Công chứng số 4 ký hợp đồng thế chấp nhà đất trên để vay tiền Ngân hàng Á Châu, số công chứng 42377. Vợ chồng bà được vay 500 triệu đồng trong đó sử dụng 200 triệu đồng để trả nợ cho ông Thân (ông Anh là người cầm tiền trả cho ông Thân), số tiền còn lại ông Anh sử dụng để làm ăn. Số tiền vay ngân hàng cả hai vợ chồng đã trả xong năm 2020, hiện không còn nợ ngân hàng. Việc trả nợ cho ngân hàng được thực hiện hàng tháng, trả gốc và lãi, bà có đưa tiền mặt cho ông Anh để ông trả nợ cho ngân hàng vì bà ở ngoài Hà Nội.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Anh thì bà không đồng ý vì đây là tài sản chung của vợ chồng. Đề nghị Tòa án bác yêu cầu của ông Anh và xác định nhà đất tại địa chỉ số 91/31 Bình Thành là tài sản chung của bà và ông Nguyễn Thanh Anh. Yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản theo tỷ lệ 50:50 và cho bà nhận nhà đất còn bà sẽ thanh toán cho ông Anh 50% giá trị của nhà đất bằng tiền.

Tại chứng thư thẩm định giá số 0601001/2023/CT-SGL ngày 07/01/2023 của Công ty TNHH MTV thẩm định giá SGL mà bà Hoài và ông Anh cùng yêu cầu thì nhà đất trên có tổng giá trị là 3.516.000.000 đồng.

Tại Bản án số 243/2023/HNGĐ-ST ngày 09/6/2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử, quyết định:

-      Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh Anh,  xác định 90,91%, giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ 91/31 Bình Thành là tài sản riêng của ông Nguyễn Thanh Anh.

-      Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Ngô Thị Hoài xác định 9,09% giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 91/31 Bình Thành là tài sản chung của ông Nguyễn Thanh Anh và bà Ngô Thị Hoài.

-      Ông Nguyễn Thanh Anh được hưởng phần giá trị tài sản là 3.356.022.000 đồng.

-      Bà Ngô Thị Hoài được hưởng phần giá trị tài sản là 159.978.000 đồng.

-      Giao cho ông Nguyễn Thanh Anh được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 458 tờ bản đồ số 79 tại 91/31 Bình Thành.

-      Ông Nguyễn Thanh Anh phải thanh toán cho bà Ngô Thị Hoài số tiền 159.978.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/6/2023, bà Ngô Thị Hoài có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 243/2023/HNGĐ-ST ngày 09/6/2023 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Yêu cầu kháng cáo: thứ nhất đề nghị Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của bà, xác định toàn bộ tài sản nhà đất đang tranh chấp là tài sản chung của bà và ông Anh và chia cho bà, ông Anh mỗi người ½ tài sản. Thứ hai, yêu cầu Tòa án xác định lại thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có bất động sản.

Ông Nguyễn Thanh Anh không có kháng cáo.

                      II.          Quan điểm bảo vệ cho bị đơn Ngô Thị Hoài

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án cùng với kết quả hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, tôi nhận thấy hoàn toàn cơ sở để Tòa án chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Ngô Thị Hoài bởi các lý do như sau:

Thứ nhất, nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản chung của vợ chồng ông Anh và bà Hoài, không có bất cứ căn cứ nào chứng minh đây là tài sản riêng của ông Anh, bởi các lẽ:

Một là, theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nhà đất đang có tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Anh và bà Hoài, quy định nêu rõ: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

Theo quy định này thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Ông Anh nhận chuyển nhượng nhà đất từ ông Phạm Ích Bàn và bà Nguyễn Thị Hiền vào ngày 10/02/2015 là trong thời kỳ hôn nhân nên đương nhiên được pháp luật công nhận là tài sản chung của vợ chồng. Nếu ông Anh cho rằng là tài sản riêng thì phải chứng minh, bà Hoài không có nghĩa vụ phải chứng minh tài sản chung.

Hai là, không có bất cứ chứng cứ nào chứng minh cụ Nguyễn Thị Thân (mẹ đẻ ông Anh) cho ông Anh 20 cây vàng vào cuối năm 2014, lời khai của ông Anh và cụ Thân không được bà Hoài chấp nhận.

Ông Anh cho rằng năm 2009 mẹ ông bán nhà ở phường Mễ Trì rồi mua 20 vàng, năm 2014 cụ Thân cho ông Anh 20 cây vàng, ông Anh bán vàng đi được 740 triệu đồng mang gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Agribank – Chi nhánh Mỹ Đình. Đến ngày 09/02/2015, ông Anh rút toàn bộ số tiền gốc và lãi để mua nhà đất với giá 825 triệu đồng. Số tiền còn thiếu ông Anh sử dụng khoản tiền của ông làm ra trong thời kỳ hôn nhân giữa ông và bà Hoài. Lời khai của ông Anh phù hợp với lời khai của cụ Thân tại Biên bản lấy lời khai ngày 10/11/2022 (Bút lục 33, 34).

Tại Văn bản 1038 ngày 22/11/2022 của Agribank – Chi nhánh Mỹ Đình (Bút lục 71) gửi Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm thể hiện ngày 16/9/2014, ông Anh mở tài khoản tiết kiệm với số tiền 740 triệu đồng, ngày 09/02/2015 đã rút toàn bộ số tiền gốc và lãi. Như vậy Công văn của Agribank chỉ xác định ngày 16/9/2014, ông Anh mở tài khoản tiết kiệm tại Agribank với số tiền 740 triệu đồng, ngày 09/02/2015 đã rút toàn bộ số tiền gốc và lãi. Công văn của Agribank không liên quan và không chứng minh được lời khai của ông Anh, cụ Thân về việc năm 2014 cụ Thân có cho ông Anh 20 cây vàng là đúng.

Lời khai của ông Anh, cụ Thân về việc cụ Thân cho ông Anh 20 cây vàng vào năm 2014 không có ai làm chứng, không tài liệu, chứng cứ nào chứng minh, không được bà Hoài thừa nhận. Cụ Thân là mẹ đẻ ông Anh nên lời khai có lợi cho ông Anh không đảm bảo tính khách quan nên không được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.

Hồ sơ vụ án cũng không có tài liệu nào thể hiện có việc cụ Thân mua 20 cây vàng năm 2009, và có việc ông Anh bán đi 20 cây vàng vào năm 2014 (cụ Thân mua vàng của ai, ở đâu, thời điểm nào, ông Anh bán cho ai, ở đâu, thời điểm nào, loại vàng gì, có hóa đơn chứng từ gì và có ai làm chứng cho việc này hay không?).

Việc xác định nguồn tiền mua nhà đất 91/31 Bình Thành có phải là do cụ Thân cho riêng ông Anh hay không là vấn đề then chốt, quan trọng nhất của vụ án này để xác định nhà đất đang tranh chấp là tài sản chung hay riêng nhưng ông Anh đã không có tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh.

Ba là, khi nhận chuyển nhượng nhà đất 91/31 Bình Thành vào năm 2015 thì ông Anh không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh tài sản này có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trong hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Phạm Ích Bàn và bà Nguyễn Thị Hiền cho ông Anh không có văn bản thể hiện nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản riêng của ông Anh.

Bốn là, ngày 27/10/2017, tại Phòng Công chứng số 4 - Thành phố Hồ Chí Minh, ông Anh và bà Hoài đã cùng nhau ký Hợp đồng thế chấp nhà đất trên cho Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Hoà Hưng để vay số tiền 500 triệu đồng. Tại khoản 12.2 Điều 12 Hợp đồng thế chấp (Bút lục 175-179), Bên thế chấp (gồm ông Anh và bà Hoài) cùng cam kết rằng: “Bên thế chấp cam kết rằng tài sản thế chấp (TSTC) thuộc quyền sở hữu/sử dụng hoàn toàn hợp pháp của bên thế chấp và không bị tranh chấp và tại thời điểm thế chấp, TSTC không bị bất kỳ hạn chế giao dịch nào”.

Như vậy tại Hợp đồng thế chấp cả ông Anh và bà Hoài đều xác nhận nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản của ông Anh và bà Hoài. Đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Năm là, xét về thu nhập thì trong thời gian hơn 13 năm tồn tại quan hệ hôn nhân (từ tháng 12/2001 đến tháng 2/2015) thì việc ông Anh và bà Hoài tích góp được số tiền 825 triệu đồng để mua nhà đất 91/31 Bình Thành là hoàn toàn phù hợp.

Tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 09/6/2023 (Bút lục 228-236), Biên bản đối chất ngày 23/02/2023 (Bút lục 204-208) cả ông Anh và bà Hoài đều thừa nhận:

-      Từ năm 2001 đến 2010: ông Anh sửa chữa điện cơ tại nhà với mức thu nhập là 7 triệu đồng/ tháng. Thu nhập của ông Anh trong thời gian này là 7 triệu đồng x 108 tháng = 756 triệu đồng.

-      Từ năm 2003 đến hết tháng 02/2014: bà Hoài bán nước và bánh mì tại phố Đồng Me (trong đó có 1 năm bà Hoài nghỉ sinh con), bà Hoài khai mức thu nhập bình quân khoảng 7-9 triệu đồng mỗi tháng, có tháng 15 triệu đồng mỗi tháng. Tòa án đã đi xác minh thực tế mức thu nhập từ hoạt động kinh doanh trên và xác định mức thu nhập bình quân là 4 triệu đồng/ tháng. Thu nhập của bà Hoài trong thời gian trên là 4 triệu đồng x 122 tháng = 488 triệu đồng.

-      Từ năm 2007 đến tháng 9/2011 (thời điểm cháu Nhật Minh bắt đầu đi học mầm non): tiền thuê phòng trọ tại phố Đồng Me do cụ Thân cho ông Anh và bà Hoài quản lý, sử dụng là 4,8 triệu đồng/ tháng. Thu nhập của ông Anh và bà Hoài trong thời gian này là: 4,8 triệu đồng x 48 tháng = 230,4 triệu đồng.

-      Từ tháng 9/2011 đến 02/2015: tiền thuê phòng trọ tại phố Đồng Me do cụ Thân cho ông Anh và bà Hoài quản lý, sử dụng là 4,8 triệu đồng/ tháng, sau khi trừ tiền đóng học cho cháu Nguyễn Nhật Minh là 2,65 triệu đồng/ tháng, còn lại 2,15 triệu đồng mỗi tháng. Thu nhập của ông Anh và bà Hoài trong thời gian này là: 2,15 triệu đồng x 41 tháng = 88,15 triệu đồng.

Tổng cộng các khoản trên là: 1.562.550.000 đồng (Một tỷ năm trăm sáu mươi hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 09/6/2023, cả ông Anh và bà Hoài đều xác nhận vợ chồng quản lý kinh tế riêng, bà Hoài là người buôn bán tại nhà và thực hiện việc chăm sóc con, lo việc gia đình. Như vậy có thể thấy các nguồn thu nhập trên cả vợ và chồng không đóng góp vào kinh tế chung, không sử dụng chi tiêu cho gia đình. Đây đều là các khoản thu nhập do vợ, chồng lao động, kinh doanh và được tặng cho chung trong trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

Tuy nhiên tôi vẫn xin lưu ý lại một lần nữa là bà Hoài không có nghĩa vụ phải chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng.

Thứ hai, bà Hoài yêu cầu Toà án chia đôi tài sản nhà đất theo tỷ lệ bằng nhau và đề nghị Toà án giao nhà đất cho bà Hoài, bà Hoài thanh toán ½ giá trị tài sản cho ông Anh bằng tiền là hoàn toàn có cơ sở để chấp nhận.

Như phân tích trên đây, nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản chung của ông Anh và bà Hoài nên bà hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản theo tỷ lệ bằng nhau, bà Hoài nhận nhà đất và thanh toán ½ giá trị tài sản cho ông Anh bằng tiền, bởi các lẽ:

Một là, xét công sức đóng góp vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung thì bà Hoài và ông Anh có công sức ngang nhau.

Như đã tính toán ở phía trên đây, bà Hoài có thu nhập từ việc kinh doanh hàng nước và bánh mì từ năm 2003, ngoài ra bà Hoài và ông Anh cùng được cụ Thân cho quản lý, sử dụng tiền thuê phòng trọ tại phố Đồng Me. Tính về tổng thu nhập thì ông Anh có đóng góp về tài chính nhiều hơn bà Hoài tuy nhiên bà Hoài kinh doanh buôn bán gần nhà và thực hiện việc chi tiêu, chăm lo nội trợ trong gia đình còn ông Anh được tự do đi kinh doanh ở ngoài. Bà Hoài còn mất một năm nghỉ sinh con vào năm 2008, sau đó bà Hoài vừa kinh doanh bán hàng vừa nuôi con nhỏ.

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 59 thì: 2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.

Điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định: Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm.

Hai là, xét về hoàn cảnh thì hiện nay ông Anh đang sở hữu và cư trú tại nhà đất trên phố Đồng Me, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và có công việc kinh doanh thuận lợi, thu nhập ổn định còn bà Hoài không có tài sản gì, hiện bà Hoài và con trai (cháu Nguyễn Nhật Minh sinh năm 2008) đang đi thuê trọ tại TP Hồ Chí Minh. Do đó Tòa án quyết định giao nhà đất cho bà Hoài và buộc bà Hoài thanh toán cho ông Anh ½ giá trị tài sản bằng tiền là phù hợp với khoản 6 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP và khoản 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Thứ ba, Toà án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ và chứng minh, kết luận không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn.

          Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận lời khai của ông Anh, cụ Thân về việc cụ Thân cho ông Anh 20 cây vàng vào năm 2014 và dùng làm chứng cứ chứng minh, giải quyết vụ án là trái quy định tại khoản 2 Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự về đánh giá chứng cứ: 2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Trong vụ án này, ngoài lời khai của cụ Thân, ông Anh về việc cho vàng thì không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh, không có ai làm chứng và không được bà Hoài thừa nhận. Thế nhưng Toà án vẫn sử dụng lời khai của cụ Thân và ông Anh để làm chứng cứ chứng minh trong vụ án đã dẫn đến ra phán quyết không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn.

          Toà án cấp sơ thẩm còn có vi phạm trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án. Trong vụ án này, nghĩa vụ chứng minh nhà đất đang có tranh chấp là tài sản riêng thuộc về nguyên đơn Nguyễn Thanh Anh vì đây là bất động sản được xác lập trong thời kỳ hôn nhân. Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình thì nhà đất 91/31 Bình Thành được công nhận là tài sản chung của vợ chồng. Bà Ngô Thị Hoài không có nghĩa vụ phải chứng minh đây là tài sản chung nhưng Toà án vẫn buộc bà Hoài chứng minh và bác bỏ yêu cầu của bà với lý do bà không chứng minh được là không đúng quy định pháp luật.

                   III.          Đề xuất, kiến nghị:

Từ các phân tích nêu trên, căn cứ quy định tại các Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 33, khoản 2 Điều 35, khoản 1 Điều 44, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình,  tôi đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm các nội dung sau:

-      Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Ngô Thị Hoài.

-      Tuyên sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thanh Anh, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Ngô Thị Hoài.

-      Xác định tài sản nhà đất 91/31 Bình Thành là tài sản chung của vợ chồng, chia đôi tài sản cho bà Ngô Thị Hoài và ông Nguyễn Thanh Anh theo tỷ lệ bằng nhau, giao nhà đất cho bà Ngô Thị Hoài, bà Ngô Thị Hoài có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Thanh Anh ½ giá trị tài sản bằng tiền.

          Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

          Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử và quý vị đã chú ý lắng nghe.

Nơi nhận:

-        Hội đồng xét xử;

-       Lưu hồ sơ.

Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2023

Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn

 

                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét