3.1.1. Xác định các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục GĐT và tính chất của GĐT
VBQPPL:
- BLTTHS (các điều 342, 343, 348, 355, 370, 371 và 395)
- Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• GĐT là xét lại bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát
hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (Điều 370
BLTTHS).
• Lưu ý: Bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật bao gồm:
- Bản án, quyết định
và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (Điều 343
BLTTHS);
- Toàn bộ bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhưng người kháng cáo rút toàn bộ
kháng cáo và Viện trưởng VKS rút toàn bộ kháng nghị và Toà án cấp phúc thẩm (Thẩm
phán trước khi mở phiên toà, HĐXX tại phiên toà) ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (khoản 1 Điều 348 BLTTHS);
- Trường hợp người
kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện trưởng VKS rút một phần kháng nghị tại
phiên tòa, mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì HĐXX
phúc thẩm nhận định về việc rút kháng cáo, kháng nghị và quyết định đình chỉ
xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm (khoản 3 Điều 342
BLTTHS), tức là phần bản án, quyết định sơ thẩm đó có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên bản án phúc thẩm;
- Trường hợp người
kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện trưởng VKS rút một phần kháng nghị trước
khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì
Chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần
kháng cáo, kháng nghị đã rút, tức là phần bản án, quyết định sơ thẩm đó có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định phúc thẩm;
- Bản án phúc thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (khoản 2 Điều 355 BLTTHS);
- Quyết định GĐT có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (khoản 1 Điều 395 BLTTHS).
• Vi phạm pháp luật
nghiêm trọng là các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục GĐT bao gồm các trường hợp
được quy định tại Điều 371 BLTTHS.
• Lưu ý:
- Kết luận trong bản
án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án tức
là trong phần nhận định của Tòa án, trong phần quyết định của bản án hoặc quyết
định có những vấn đề không phù hợp với những tình tiết khách quan đã thu thập
được trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà hoặc những tình tiết
khách quan đã được làm rõ tại phiên toà qua tranh tụng;
- Có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng
trong việc giải quyết vụ án là trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải tiến
hành hoặc tiến hành theo thủ tục tố tụng đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc không thực hiện đúng dẫn đến sai lầm nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án. Nếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
nhưng không dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì vi phạm
đó không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục GĐT;
- Có những sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là việc áp dụng không đúng quy định của
pháp luật hoặc không áp dụng quy định pháp luật để giải quyết vụ án. “Sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” không chỉ là những sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng BLHS, BLTTHS mà còn bao gồm cả những sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật khác có liên quan. Cũng coi như sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật nếu áp dụng đúng điểm, khoản, điều luật của BLHS
nhưng xử quá nhẹ hoặc xử quá nặng; buộc bồi thường không đúng v.v…
3.1.2. Phát hiện bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục GĐT
VBQPPL:
- BLTTHS (Điều 372)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Bất kỳ người nào,
cơ quan, tổ chức đều có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng
nghị biết (khoản 1 Điều 372 BLTTHS).
• Đối với Toà án,
VKS khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền
kháng nghị biết (khoản 2 và 3 Điều 372 BLTTHS).
3.1.3. Xác định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục GĐT
VBQPPL:
- BLTTHS (các điều 41, 44, 373, 377, 378 và 379)
- Luật Tổ chức TAND (khoản 3 Điều 27, điểm c khoản 2 Điều
35)
- Luật Tổ chức VKSND (khoản 3 Điều 3)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Để xác định đúng
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục GĐT cần căn cứ vào Điều 373 BLTTHS. Tuy
nhiên, căn cứ vào khoản 3 Điều 27, điểm c khoản 2 Điều 35 Luật Tổ chức TAND ,
khoản 3 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND, Điều 41 và Điều 44 BLTTHS thì Phó Chánh án
TANDTC, Phó Viện trưởng VKSNDTC, Phó Chánh án TAND cấp cao, Phó Viện trưởng
VKSND cấp cao được phân công phụ trách phần việc cũng có quyền ký kháng nghị
thay Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng
VKSND cấp cao.
• Khi được phân công
giúp người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục GĐT, để xem xét, quyết định việc
kháng nghị theo thủ tục GĐT, ngoài việc cần nắm chắc các công việc và kỹ năng
thực hiện tại các điểm 3.1.1 và 3.1.2 tiểu mục 3.1 mục 3 Phần thứ hai này, cần
nghiên cứu thực hiện các quy định tại các điều 377, 378 và 379 BLTTHS.
3.1.4. Xác định thẩm quyền giám đốc thẩm
VBQPPL:
- BLTTHS (Điều 382)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Thẩm quyền GĐT và
thành phần Hội đồng GĐT được quy định cụ thể tại Điều 382 BLTTHS.
• Lưu ý quy định tại
khoản 6 Điều 382 BLTTHS: “Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị thuộc thẩm quyền GĐT của các cấp khác nhau thì HĐTP TANDTC GĐT toàn bộ vụ
án”.
Ví dụ: Bản án sơ thẩm của Toà án tỉnh X đã xét xử đối với
05 bị cáo. Chỉ có 02 bị cáo kháng cáo và TAND cấp cao tại Hà Nội (có thẩm quyền
theo lãnh thổ) quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với họ. Trong trường hợp
này bản án sơ thẩm của Toà án tỉnh X đã có hiệu lực pháp luật đối với 03 bị cáo
không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật đối với 02 bị cáo
kháng cáo kể từ ngày tuyên án. Phát hiện cả hai bản án đều có sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật và Chánh án TANDTC kháng nghị theo thủ tục GĐT.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 382 BLTTHS thì thẩm quyền GĐT đối với
phần bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật thuộc Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại
Hà Nội.
Theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 382 BLTTHS thì thẩm
quyền GĐT đối với bản án phúc thẩm thuộc TANDTC. Tuy nhiên, theo quy định tại
khoản 6 Điều 382 BLTTHS thì trong trường hợp này HĐTP TANDTC có thẩm quyền GĐT
toàn bộ vụ án.
3.1.5. Phiên toà giám đốc thẩm
VBQPPL:
- BLTTHS (các điều 379, 382, 383, 384, 386, 387, 388, 389,
390, 391, 392 và 393)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Thực tiễn việc
phân công Chủ tọa phiên tòa GĐT như sau:
- Phiên toà GĐT của
Hội đồng toàn thể Thẩm phán TANDTC hoặc của Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán
TAND cấp cao do Chánh án hoặc một Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm làm Chủ tọa
phiên toà;
- Phiên toà GĐT của
HĐXX gồm 05 Thẩm phán của HĐTP TANDTC, HĐXX gồm 03 Thẩm phán của Ủy ban Thẩm
phán TAND cấp cao do 01 Phó Chánh án hoặc 01 Thẩm phán làm Chủ tọa phiên tòa
theo sự phân công của Chánh án TANDTC, Chánh án TAND cấp cao;
- Phiên toà GĐT của Ủy
ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương thì do Chánh án TAQS trung ương hoặc một
Phó Chánh án TAQS trung ương được Chánh án uỷ nhiệm làm Chủ tọa phiên toà.
• Kiểm sát viên VKS
cùng cấp phải tham gia phiên toà GĐT. Đối với người bị kết án, người bào chữa,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì chỉ triệu tập họ
tham gia phiên toà GĐT nếu xét thấy thật sự cần thiết hoặc xét thấy có căn cứ sửa
một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu họ vắng mặt thì phiên
tòa GĐT vẫn được tiến hành (Điều 383 BLTTHS).
• Nếu được Chánh án
phân công làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên toà GĐT thì Thẩm phán là
thành viên Hội đồng GĐT làm bản thuyết trình về vụ án đúng theo quy định tại Điều
384 BLTTHS. Bản thuyết trình và các tài liệu có liên quan phải được gửi trước
cho các thành viên của Hội đồng GĐT chậm nhất là 07 ngày trước ngày mở phiên
tòa GĐT.
• Theo quy định được
cụ thể hoá tại Điều 386 BLTTHS thì trình tự, thủ tục phiên toà GĐT như sau:
- Chủ tọa phiên tòa
khai mạc phiên toà và kiểm tra sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và
những người được triệu tập tham gia phiên toà GĐT. Cần chú ý là, người được triệu
tập tham gia phiên toà GĐT vắng mặt (không phân biệt có lý do chính đáng hay
không có lý do chính đáng) thì Hội đồng GĐT vẫn có thể tiến hành xét xử;
- BLTTHS không quy định
nhưng cần có một Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà GĐT;
- Sau khi Chủ tọa
khai mạc phiên tòa, một thành viên của Hội đồng GĐT trình bày bản thuyết trình
về vụ án;
- Các thành viên
khác của Hội đồng GĐT hỏi thêm Thẩm phán thuyết trình về những điểm chưa rõ trước
khi thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án;
- Trường hợp VKS
kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị;
- Trường hợp người bị
kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng
nghị có mặt tại phiên tòa thì những người này được trình bày ý kiến về những vấn
đề mà Hội đồng GĐT yêu cầu;
- Kiểm sát viên phát
biểu ý kiến của VKS về quyết định kháng nghị và việc giải quyết vụ án;
- Kiểm sát viên, người
tham gia tố tụng tại phiên tòa GĐT tranh tụng về những vấn đề liên quan đến việc
giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, người
tham gia tố tụng trình bày hết ý kiến, tranh luận dân chủ, bình đẳng trước Tòa
án;
- Các thành viên Hội
đồng GĐT phát biểu ý kiến của mình và thảo luận (trong quá trình các thành viên
Hội đồng GĐT thảo luận, phát biểu ý kiến, nếu đại diện VKS có đề nghị phát biểu
ý kiến bổ sung thì Chủ tọa phiên tòa xem xét, quyết định);
- Sau khi các thành
viên Hội đồng GĐT thảo luận, phát biểu ý kiến xong, Chủ toạ phiên toà đưa ra
các vấn đề cần quyết định và các thành viên Hội đồng GĐT biểu quyết về việc giải
quyết vụ án và công bố quyết định về việc giải quyết vụ án.
• Xác định phạm vi
GĐT
- Theo quy định tại
Điều 387 BLTTHS thì Hội đồng GĐT phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế
trong nội dung của kháng nghị. Tuy nhiên, khi xem xét theo hướng không có lợi
cho người bị kết án cần chú ý là chỉ khi bản án hoặc quyết định có hiệu lực
pháp luật chưa quá một năm (khoản 1 Điều 379 BLTTHS).
• Xác định thẩm quyền
của Hội đồng GĐT
- Thẩm quyền của Hội
đồng GĐT được quy định tại Điều 388 và các điều tương ứng 389, 390, 391, 392 và
393 BLTTHS, cụ thể như sau:
+ Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị (Điều 389);
+ Hủy bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng
pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không
đúng pháp luật (Điều 390);
+ Hủy bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại (Điều 391);
+ Hủy bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án (Điều 392);
+ Sửa bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật (Điều 393);
+ Đình chỉ xét xử
GĐT (khoản 6 Điều 388).
- Khi huỷ phần quyết
định nào đó trong bản án đã có hiệu lực pháp luật cần ghi: “huỷ bản án số...
ngày... tháng... năm của Toà... về phần quyết định...”. Không được ghi huỷ một
phần bản án...
- Trong trường hợp
huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét xử lại và
xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng GĐT ra quyết
định tạm giam cho đến khi VKS hoặc Toà án thụ lý lại vụ án.
3.1.6. Công việc sau khi kết thúc phiên toà
VBQPPL:
- BLTTHS (Điều 395 và Điều 396)
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
• Hoàn thiện quyết định
GĐT trong thời hạn không quá 10 ngày.
• Chuyển quyết định
GĐT cho bộ phận chức năng để gửi theo quy định tại khoản 2 Điều 395 BLTTHS.
• Giao hồ sơ vụ án cho bộ phận chức năng quản lý hồ sơ hoặc gửi cho cơ quan có thẩm quyền trong các trường hợp quy định tại Điều 396 BLTTHS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét