II. LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THEO
LUẬT SỐ 88/2025/QH15)
Ngày 25/6/2025, tại Kỳ họp 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 88/2025/QH15, Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025. Luật này bào gồm các nội dung sau đây:
1. Sửa đổi, bổ sung 47 Điều1 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2020, cụ thể như sau:
1Các điều 4, 6, 21, 23, 24, 52, 53, 54, 56, 57, 58, 59, 60, 62, 63, 70, 71, 76, 77, 80, 87, 92, 94, 96, 97, 99, 100, 101, 102, 103, 104, 105, 107, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 117, 118, 123, 125, 126, 129, 131 và 132
- Sửa đổi, bổ sung Điều 6 về
thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính: Theo quy định
hiện hành, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong hầu hết các lĩnh vực là 01 năm (một số lĩnh vực là 02 năm), tính
từ thời điểm kết thúc hành vi vi phạm
hoặc thời điểm phát hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, đối với một số vụ việc phức tạp, khi cơ quan tiến hành tố tụng
chuyển hồ sơ đến để xử phạt vi phạm hành
chính thì đã hết thời hiệu, dẫn đến không thể xử lý hành vi vi phạm. Vì vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung
theo hướng: “Trường hợp xử phạt
vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu xử phạt áp dụng theo
quy định tại điểm a khoản này được kéo
dài thêm 01 năm”.
- Sửa đổi Điều 56 về xử phạt
vi phạm hành chính không lập biên bản theo hướng
tăng giới hạn mức phạt tiền tối đa được thực hiện thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản (từ 250.000 đồng
lên 500.000 đồng đối với cá nhân;
từ 500.000 đồng lên 1.000.000 đồng đối với tổ chức) để góp phần đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi hơn cho cả đối tượng
vi phạm và người có thẩm quyền xử phạt
trên cơ sở bảo đảm phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, mức tăng thu nhập bình quân đầu người tại thời điểm
hiện nay so với trước đây.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 58 về thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành
chính cho người có thẩm quyền xử phạt theo hướng linh hoạt hơn, theo đó không quy định thời hạn cụ thể nhưng yêu cầu vẫn
phải đảm bảo nguyên tắc xử lý kịp
thời trong xử phạt vi phạm hành chính,
bảo đảm phù hợp hơn với điều kiện thực tế
khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, không tổ chức cấp huyện, tiếp tục sáp nhập cấp tỉnh, cấp xã và phạm vi địa
bàn quản lý mở rộng. Đồng thời, phân định,
làm rõ hơn các trường hợp có đặc thù trong lập và chuyển biên bản vi phạm hành chính gắn với yếu tố đặc thù về không
gian (vi phạm hành chính xảy ra
trên biển, đường thủy nội địa), phương tiện (tàu bay, tàu biển, phương tiện thủy nội địa, tàu hỏa) để bảo đảm phù hợp với thực
tiễn thực thi pháp luật.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 62 về chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự và Điều 63 về chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành nhằm quy định rõ hơn, bảo đảm thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục xử lý khi chuyển giao giữa quy trình xử phạt vi phạm hành chính và quy trình tố tụng hình sự.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 87 về
thẩm quyền quyết định cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính theo hướng quy định chung cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là cấp
trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, thay vì quy định các chức danh cụ thể như hiện nay để bảo đảm tính linh hoạt, kịp thời đáp ứng những thay đổi
trong tổ chức bộ máy, đồng thời, cũng phù hợp
với chủ trương tăng cường tính tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ công vụ thuộc thẩm quyền.
- Sửa đổi các quy định về thẩm
quyền lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính, thi hành quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Phần thứ ba của Luật XLVPHC theo
hướng: Trưởng Công an cấp xã có
thẩm quyền lập hồ sơ và quyết định chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đến Tòa án nhân dân để
xem xét, quyết định. Đồng thời,Trưởng Công an cấp xã có thẩm quyền thi hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý
chuyển hướng của Tòa án để phù hợp với hệ thống Công an nhân dân không tổ chức cấp huyện; chính quyền địa phương tổ chức
theo mô hình 02 cấp, nhiệm vụ quản
lý nhà nước về cai nghiện ma túy đã được chuyển giao từ cơ quan Lao động–
Thương binh và Xã hội sang cơ quan Công an.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 123 về một số chức danh có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính tạm giữ người theo thủ tục hành chính để bảo đảm phù hợp với sự thay đổi của các chức danh, cơ quan, tổ chức khi sắp xếp tổ chức bộ máy và chính quyền địa phương.
2. Bổ sung 02 điều2, cụ thể như sau:
2Điều 18a và Điều 37a
- Bổ sung 01 điều (Điều 18a)
quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong
xử lý vi phạm hành chính, trong đó, quy định nguyên tắc chung về việc xử lý vi phạm hành chính trên môi trường điện tử,
đồng thời, giao Chính phủ quy định
chi tiết để cụ thể hóa việc thực hiện các quy trình, thủ tục xử lý vi phạm hành chính trên môi trường điện tử.
- Bổ sung 01 điều (Điều 37a) về
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Theo
đó, quy định cụ thể người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, giao:
- (1) Chính phủ quy định chi tiết các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả của từng chức danh;
- (2) Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả của từng chức danh trong Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm toán Nhà nước. Đồng thời, quy định rõ đối với trường hợp thành lập cơ quan, lực lượng mới (không do sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước) chưa được quy định thì thẩm quyền xử phạt của chức danh thuộc các cơ quan, lực lượng được thành lập mới do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
- Việc bổ sung quy định này có sự
khác biệt rất lớn so với quy định của Luật Xử lý
vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2020. Nếu Luật Xử lý vi phạm hành chính trước đây giao Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định thẩm
quyền, hình thức xử phạt và mức phạt tiền đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của tất cả các cơ quan có thẩm quyền
thì Luật Xử lý vi phạm hành chính
sửa đổi, bổ sung năm 2025 chỉ giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thẩm quyền, hình thức xử phạt và mức phạt tiền
đối với các hành vi cản trở hoạt động tố
tụng của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Chính phủ quy định thẩm quyền, hình thức xử phạt và mức phạt tiền
đối với các cơ quan có thẩm quyền
thuộc Chính phủ.
3. Bãi bỏ 17 Điều3 về
hình phạt, mức phạt tiền của từng chức danh có thẩm quyền xử phạt tại Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm
2020. Chính phủ sẽ quy định cụ thể thẩm quyền, hình phạt, mức phạt tiền của từng chức danh.
3các điều 38, 39, 40, 41, 42, 43, 43a, 44, 45, 45a, 46, 47, 48, 48a, 49, 51 và khoản 2 Điều 71
4. Quy định điều khoản chuyển
tiếp cho phép Trưởng Công an cấp xã (mới) có thẩm
quyền xử phạt theo thẩm quyền của Trưởng Công an cấp huyện; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã (mới) có thẩm quyền xử
phạt theo thẩm quyền của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện kể từ khi Luật được thông qua, trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung các chức danh có liên quan
tại các nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét